NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO THỜI TRẦN Ở CỐ ĐÔ HOA LƯ – NINH BÌNH
Bài viết, ảnh: KTS. Trần Trung Hiếu
Bản rập: Đào Xuân Ngọc
Bài viết tổng hợp từ nghiên cứu và tư liệu của nhóm làm sách về hang Cô Phong: Nguyễn Xuân Trung, Trần Trung Hiếu, Đào Xuân Ngọc, Lưu Thị Dung, Đặng Hồng Sơn
MỞ ĐẦU:
Hang Cô Phong hay còn gọi là Liên Hoa động, hiện nay nằm trong chùa Phong Phú, tọa lạc tại phường Ninh Giang, nằm ở phía bắc thành phố Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Làng Phong Phú vốn là một vùng đất cổ, từ thời Tiền sử – Sơ sử đã có cư dân đến tụ cư, sinh sống. Đến thời Đinh, ngôi chùa được dựng lên lấy tên là Bảo Phúc Nham. Đến thời Nguyễn, chùa đổi tên là Khúc Mộ tự. Đến nay gọi là chùa Phong Phú theo tên địa danh nơi đây. Trong lịch sử, chùa được trùng tu sửa chữa nhiều lần vào thời Trần, thời Mạc, thời Nguyễn. Năm 1939, nhân dân làng Phong Phú đã xây lại chùa. Năm 2023, chùa lại được cải tạo, xây dựng thêm một số hạng mục. Hiện nay chùa vẫn còn lưu giữ được các bia đá, bia ma nhai, 18 hình khắc trên hai vách hang, 10 tượng đá và một số tượng gỗ.
Trong vài thập niên gần đây, đã có nhiều nhà khoa học và các tổ chức về hang Cô Phong nghiên cứu bia ký và các hình khắc trên vách hang. Dựa vào tấm bia ma nhai có niên đại “Kiến Gia Bính Ngọ” nằm cạnh các hình khắc này. Hoa văn diềm xung quanh bia có cùng một phong cách mỹ thuật với hoa văn diềm xung quanh các hình khắc nên các nhà nghiên cứu đều có nhận xét chung đây là 18 vị La Hán được khắc vào thời Lý, Trần. Tuy thế, hơn một nửa hình khắc chỉ còn lại những nét chạm mờ nhạt, hòa lẫn với các vết xước của núi nên rất khó để mắt thường nhận dạng được. Cũng vì thế mà những bức hình trên đá này vẫn còn nhiều bí ẩn, chưa được sáng tỏ và dần bị lãng quên theo thời gian.
Từ đầu năm 2022 đến giữa năm 2024, nhóm chúng tôi gồm có Nguyễn Xuân Trung, Trần Trung Hiếu, Đào Xuân Ngọc, Lưu Thị Dung và Đặng Hồng Sơn đã nghiên cứu tỷ mỉ, kỹ lưỡng bia ký, các hình khắc và tượng trong hang Cô Phong để làm một cuốn sách về nơi đây. Trong quá trình thực hiện, bằng những phương pháp khai thác tư liệu mới, chúng tôi đã tái hiện được khá rõ nét, chân thực hình ảnh các vị La Hán. Sau này nhờ thêm có sự giúp sức của nhà nghiên cứu Phật học, Hán – Nôm học Vũ Văn Toàn, đã định danh được một số vị La Hán. Đặc biệt hơn cả là phát hiện được một vị thiền sư người Việt cũng được xếp ngang hàng với các vị La Hán này. Cũng trong quá trình nghiên cứu ở đây, chúng tôi đã xác định được nhóm tượng đá trong hang cũng đồng niên đại với nhóm tranh khắc La
Hán. Như vậy ở hang Cô Phong hiện vẫn lưu giữ được hai nhóm di vật thời Trần cực kỳ quý giá.
Trong quá trình khai thác tư liệu, chúng tôi cũng có khảo sát các di tích lân cận để mở rộng vùng nghiên cứu, và cũng phát hiện thêm vết tích của một nhóm tượng La Hán bằng đá thời Trần ở động Thiên Tôn.
1. HÌNH KHẮC LA HÁN TRÊN VÁCH HANG CÔ PHONG

Hình khắc 9 vị La Hán ở vách bên phải hang
Gồm 18 hình các vị La Hán được chia thành hai bên khắc trên vách núi gồ ghề. có thể nhận ra được sự khéo léo tài tình của các nghệ nhân xưa là chạm ngay trên thực trạng không bằng phẳng của vách núi. Không chỉ thế mà còn nhận ra được sự tinh tế và ẩn ý ở điểm nhìn tổng thể từ ngoài cửa hang, những hình khắc tạo thành hai hàng cánh sen trên vách đá, giữa mỗi cánh sen hiện lên hình một vị tôn giả, tất cả khung cảnh như là một cõi Phật trang nghiêm, thanh tịnh. GS. Tống Trung Tín có viết: “Các tài liệu chữ viết thời Lý – Trần thường mô tả tranh Phật giáo thời Lý – Trần là biến hóa kỳ ảo, muôn hình vạn trạng”…18 vị La Hán vừa có những đặc điểm chung lại vừa có những đặc điểm riêng: Đặc điểm chung là trên đầu các La Hán đều có các vòng hào quang hình tròn. Phía dưới các La Hán đều có các tòa sen với các cánh sen mập, mũi thuôn nhỏ tỏa đều ra hai bên. Mỗi một bức tranh đều có một đường viền bao quanh chạm hoa dây uốn lượn hình sin. Các La Hán cũng đều mặc áo cà sa chùng rộng có nhiều nếp gấp mềm mại, cổ áo đều chéo hình chữ V. Mỗi vị đều có thẻ hình chữ nhật khắc chữ Hán. Nét riêng là mỗi La Hán đều ngồi theo tư thế riêng, có dung mạo riêng thể hiện rõ thần thái của từng vị”[1].
Trên vách hang núi Cô Phong, cùng với các hình khắc có một tấm bia ma nhai niên đại “Kiến Gia Bính Ngọ”
Chữ Hán: “建嘉丙午年,大推[興]2化。[代陳家]次二帝,修人南[宗]禪師宴于孤峯山。憑恩安国大王,重開創宝福岩,永貽供養。後世若人歷覽其言,重添補助。”
Phiên âm: “Kiến Gia Bính Ngọ niên, đại suy [hưng] hóa. [Đại Trần gia] thứ nhị đế, tu nhân Nam [Tông] thiền sư yến vu Cô Phong sơn. Bằng ân An Quốc đại vương trùng khai sáng Bảo Phúc Nham, vĩnh di cung dưỡng. Hậu thế nhược nhân lịch lãm kỳ ngôn, trùng thiêm bổ trợ.”
Dịch nghĩa: “Năm Bính Ngọ niên hiệu Kiến Gia, mở rộng chấn hưng giáo hóa, vào thời hoàng đế thứ hai của nhà Trần3, có người tu hành là Nam [Tông] thiền sư tổ chức yến tiệc ở núi Cô Phong. Nhờ cậy ơn đức của An Quốc đại vương4 khai mở sáng lập Bảo Phúc Nham, để cúng dường đức Phật mãi mãi. Đời sau nếu có ai đến thăm động và đọc được bia này, thì góp công tu bổ thêm.”
Kiến Gia là niên hiệu duy nhất trong thời gian làm vua (1211-1224) của Lý Huệ Tông. Trong thời gian này không có năm Bính Ngọ nào trùng khớp, chỉ có năm Nhâm Ngọ 1222. Tuy nhiên, văn bia có nhắc đến vị vua thứ hai nhà Trần, tức là sau năm 1225 khi nhà Trần đã thành lập. Do đó, có thể năm Bính Ngọ trong bia là năm 1246. Niên đại 1246 ở đây cũng được nhiều nhà khoa học ủng hộ.
Hình ảnh các vị La Hán xuất hiện phổ biến trong các ngôi chùa Việt, được lấy theo tên 16 vị ở trong Đại A La Hán Nan Đề Mật Đa La sở thuyết Pháp Trụ Ký (viết tắt là Pháp Trụ Ký) bắt đầu từ ngài Tân Đầu Lô Phả La Đọa Xà. Ở Trung Quốc, vào thời nhà Đường, ngài Tam Tạng đã dịch cuốn này sang Hán văn cổ. Đến thời Ngũ Đại Thập Quốc, một họa sĩ nổi tiếng, giỏi về tranh Đạo giáo và Phật giáo là Guanxiu (Quán Hưu-貫休) dựa vào bản dịch của ngài Tam Tạng, sáng tác ra hình ảnh của 16 vị La Hán theo cuốn Pháp Trụ Ký, cũng vào thời Ngũ Đại, một họa sĩ khác là Trương Huyền sáng tác thêm 2 vị ghép lại thành bộ 18 vị La Hán, đây là hình ảnh về bộ 18 vị La Hán xuất hiện đầu tiên. Về sau nhiều nơi đã học theo, lan truyền hình ảnh về 18 vị La Hán với nhiều sáng tác khác nhau, không chỉ ở riêng Trung Quốc mà còn sang các nước lân cận khác. Về tạo hình của các vị La Hán phụ thuộc nhiều vào sự sáng tạo của những họa sĩ thời xưa nên mỗi một bộ tranh ít nhiều khác nhau về thứ tự, hình tướng, trang phục, đặc điểm nhận dạng, pháp khí, cảnh vật… Tuy thế ở những thời kỳ đầu đến tận triều đại Nam Tống, các bộ tranh về La Hán vẫn dựa theo bộ tranh của Guanxiu làm gốc sáng tác.
Do nghệ thuật Phật giáo thời Lý, Trần còn nhiều khoảng trống và trong thời kỳ này hiện không tìm thấy tạo hình các vị La Hán nào khác ngoài các di vật ở hang Cô Phong. Vì vậy khi nghiên cứu về phương diện mỹ thuật, chúng tôi có đối chiếu với các bức tranh La Hán của Trung Quốc ở các thời kỳ khác nhau. Chúng tôi nhận thấy có những tương đồng về hình dáng nhân vật và bố cục sắp xếp so với những bức tranh thời kỳ Nam Tống.

Hình trái và giữa: Bản rập hình khắc La Hán ở hang Cô Phong
Hình phải: Tranh La Hán vẽ bởi họa sỹ Jin Dashou (Kim Đại Thụ 金大受) thời Nam Tống
Ở bức tranh trên ta thấy được hình dáng, khuôn mặt của vị La Hán thời Nam Tống khá giống với vị La Hán trên bản rập ở giữa. Kiểu bố cục tranh thời Nam Tống khá giống với bố cục bản khắc vị La Hán trên bản rập ở bên trái.

Hình phải: Tranh La Hán vẽ bởi họa sỹ Jin Dashou thời Nam Tống Hình trái: Bản rập hình khắc La Hán ở hang Cô Phong
Ở bức tranh trên ta thấy được hình dáng, khuôn mặt của vị La Hán thời Nam Tống khá giống với vị La Hán trên bản rập.
Trên diềm trán của một bức chạm La Hán có chạm khắc hình rồng, tuy chỉ là nét và không còn nguyên nhưng cũng có thể nhận thấy được tạo hình theo phong cách mỹ thuật Lý – Trần.

Hình trái: Bản rập diềm trán hình khắc La Hán chạm hình rồng
Hình phải: Rồng thời Trần trên trán bia Thanh Mai, Hải Dương

Hình 1: Bản rập hoa văn diềm hai bên hình khắc La Hán
Hình 2: Hoa văn diềm bia Ngô Gia Thị Bi, năm 1366
Hình 3: Hoa văn diềm bia Thanh Mai Viên Thông Tháp Bi, năm 1362
Hình 4: Hoa văn diềm bia chùa Thiệu Long, năm 1226
Khi so sánh hoa văn trên các diềm của hình khắc La Hán ở Cô Phong với hoa văn trên một số diềm bia thời Trần có thể thấy được sự tương đồng về hình dạng, cấu trúc và tỷ lệ. Như vậy, qua niên đại bia, qua sự so sánh tạo hình La Hán và hoa văn chạm khắc, chúng tôi nhận định những bức chạm trong hang Cô Phong có niên đại thời Trần.
Ngoài ra, một điều đặc biệt, trên thẻ tên của một vị La Hán ở hang Cô Phong có ghi “南贍部洲泉寒南宗尊者”dịch là: “Nam Thiểm Bộ Châu Tuyền Hàn Nam tông tôn giả”. Ngoài bia “Kiến Gia Bính Ngọ” đã nhắc ở trên có nói về một vị Nam Tông thiền sư, ở một bia ma nhai khác cũng có nhắc đến Nam Tông có người tên hiệu là Hàn Tuyền tôn giả. Như vậy, chúng tôi nhận định các nghệ nhân xưa đã khắc bộ tranh ở hang Cô Phong theo 16 La Hán của Pháp Trụ Ký và thêm vào ít nhất một vị thiền sư là Hàn Tuyền để tạo thành một bộ tranh các vị La Hán riêng có của người Việt.
Đây chính là sự độc đáo của những hình khắc các vị La Hán ở hang Cô Phong, chùa Phong Phú.

Hình trái: Bản rập Nam Tông thiền sư Hàn Tuyền
Hình phải: Ảnh chụp chi tiết khuôn mặt Nam Tông thiền sư Hàn Tuyền
2. NHÓM TƯỢNG ĐÁ TRONG HANG CÔ PHONG
Ngoài những hình khắc La Hán trên, hang Cô Phong còn lưu giữ được một nhóm tượng đá có cùng phong cách nghệ thuật. Nhóm tượng này hiện còn 10 pho, 1 pho để độc lập bên phải và 9 pho còn lại xếp thành một cụm để phía sau ban Tam Bảo. Khi quan sát nhóm tượng có thể thấy ngay hai di vật có phong cách thời Lý chính là hai bệ đá đặt tượng. Một có dạng dật cấp thường thấy ở các bệ tượng thời Lý, một có chạm hoa văn sóng Thủy Ba thời Lý – Trần. Tuy thế, nhóm tượng đá ở đây được phủ kín bởi một lớp sơn khá dày, kết hợp các màu đen, xanh, vàng, đỏ, hồng. Lớp sơn này khiến cho giá trị thực sự của những bức tượng này bị ẩn dấu đi. Do đó mà các nhà nghiên cứu đến đây dễ lầm tưởng đây là những pho tượng được làm vào thời Nguyễn.
Trong quá trình khảo sát, nghiên cứu, khi quan sát tỉ mỉ lớp đá phía trong nhờ một số mảng sơn trên tượng bị tróc ra, chúng tôi nhận thấy có nhiều nét nghệ thuật chạm khắc của thời Lý – Trần. Đến khi toàn bộ lớp sơn phủ trên tượng được tẩy sạch, chúng tôi có nhiều căn cứ hơn để nhận định đây là nhóm tượng thời Lý – Trần. Có thể nhận thấy ngay ở cách tạc đôi mắt tượng thành khối đầy đặn nổi lên giống như với phong cách tượng thời Lý và thời Đường, Tống của Trung Quốc. Ngoài ra y áo của tượng, đường nét chạm khắc cũng mang phong cách Lý – Trần.

Ảnh chụp cụm 9 tượng đá khi đang bị phủ sơn

Ảnh chụp cụm 9 tượng đá khi được tẩy sạch lớp sơn

Hình trái: Tượng đá ở hang Cô Phong
Hình phải: Đầu tượng Kim Cương bằng đá ở chùa Phật Tích. Nguồn ảnh: Nguyễn Hoài Nam

Hình trái: Ngựa đá thời Lý ở chùa Phật Tích Hình phải: Tượng đá “Mã Diện” ở hang Cô Phong

Ảnh: Tượng đá ở hang Cô Phong

Ảnh: Tượng Phật đá ở chùa Phật Tích
Trong cụm 9 tượng đá này cũng chia thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất là pho ngồi chính giữa có hình dáng tựa như một vị Phật, đứng hai bên là hai vị thị giả đứng kính cẩn. Cùng nhóm với ba vị này là hai tượng hầu nữ đứng ở ngoài cùng và một vị hầu nam đội mũ. Nhóm thứ hai là một vị La Hán đứng nắm tay kết ấn Mật Phùng tựa như ngài Ca Diếp. Cùng với vị này là hai tượng Ngưu Đầu, Mã Diện, tuy nhiện tượng Ngưu Đầu đã bị mất đầu và được làm mới.
Ngoài cụm 9 tượng đá này còn một vị ngồi độc lập trên bệ tượng tạc hình sóng Thủy Ba. Tượng đội mũ ni ngồi thiền với tư thế Kiết già, hai tay đặt ngửa trên đùi. Ngồi ở vị trí này cùng với một vài đặc điểm trên khuôn mặt khá giống với hình khắc trên vách hang nên chúng tôi suy đoán đây là tôn tượng Hàn Tuyền tôn giả.

Ảnh: Tượng đá ngồi độc lập trên bệ chạm sóng Thủy Ba
3. DẤU VẾT TƯỢNG LA HÁN THỜI TRẦN Ở ĐỘNG THIÊN TÔN
Qua khảo sát các di tích lân cận chùa Phong Phú, ở động Thiên Tôn chúng tôi phát hiện một nhóm tượng La Hán nhỏ ngồi trên các bệ núi đá. Thoạt nhìn đây là những tượng có niên đại muộn, khoảng cuối thời Nguyễn. Những tượng này được sơn màu sặc sỡ nên khi quan sát sẽ không chú ý đến bệ đá phía dưới tượng. Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng, chúng tôi nhận định phía dưới các tượng là các bệ bằng đá có nhiều đặc điểm tạo hình như tượng và hình khắc ở hang Cô Phong như tạo hình giày, núi và bệ tượng. Do đó chúng tôi nhận định những bệ tượng đá này cũng có niên đại thời Trần. Thật tiếc là các tượng ở đây đã bị mất, tuy thế những chiếc bệ này vẫn có giá trị rất lớn, đánh dấu nơi đây đã từng tồn tại một bộ tượng La Hán thời Trần.

Ảnh: Nhóm tượng La Hán ở động Thiên Tôn

Ảnh: Nhóm tượng La Hán ở động Thiên Tôn

Ảnh: Một vị La Hán ở động Thiên Tôn

Ảnh trái: Đôi giày của hình khắc La Hán hang Cô Phong Ảnh phải: Đôi giày của La Hán động Thiên Tôn

Ảnh trái: Vải phủ lên bệ tượng ở hang Cô Phong Ảnh phải: Vải phủ lên bệ tượng ở động Thiên Tôn
KẾT LUẬN
Có thể nói những hình khắc La Hán, tượng đá ở hang Cô Phong và động Thiên Tôn là những di sản vô cùng quan trọng, có giá trị lớn, nhằm bổ sung kiến thức, hiện vật, phần nào bù đắp được một khoảng trắng trong nền mỹ thuật Phật giáo thời Trần mà bấy lâu giới nghiên cứu khoa học vẫn khát khao tìm hiểu.
GHI CHÚ:
[1] Tống Trung Tín, Tranh khắc 18 vị La Hán thời Trần khắc trên vách đá
[2] Trong mỗi ký hiệu([])là một chữ mờ, có thể người dịch đọc không hoàn toàn chính xác.
[3] Nhà Trần bắt đầu từ năm 1225 với vị vua đầu tiên là Trần Thái Tông (Trần Cảnh, 1218-1277). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, năm 1226 Trần Thái Tông tôn cha mình là Trần Thừa (1184-1234) làm Thượng hoàng; năm 1234 Thượng hoàng Trần Thừa mất, miếu hiệu là Huy Tông, tên thụy là Khai vận Lập cực Hoằng nhân Ứng đạo Thuần chân Chí đức Thần vũ Thánh văn Thùy dụ Chí hiếu Hoàng đế. Như vậy, nhà Trần đã coi Thái Tổ Trần Thừa là vị vua đầu tiên, còn Thái Tông Trần Cảnh là vị vua thứ hai.
[4] Hiện nay chưa xác định được vị An Quốc đại vương là ai.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đại A La Hán Nan Đề Mật Đa La Sở Thuyết Pháp Trụ Kí, Đường Huyền Trang dịch ra tiếng Hán, Thích Chúc Hiền dịch ra tiếng Việt.
Đinh Khắc Thuân (chủ biên) (2021), Văn bia chữ Hán Việt Nam từ thời Bắc thuộc đến thời Trần, Nxb Đại học Quốc Hà Nội.
Nguyễn Thị Măng, Nguyễn Xuân Trung, Nguyễn Thị Vân (đồng chủ biên), Tuyển tập văn bia Ninh Bình tập 1 từ thế kỉ X-XVII (2022), Nxb Đại học Quốc Hà Nội.
PGS. TS. Tống Trung Tín, bài viết Tranh 18 vị La Hán thời Trần chạm khắc trên vách đá.
Đặng Công Nga, Dương Văn Vượng, Một văn bia cổ mới phát hiện tại chùa động thôn Phong Phú, xã Ninh Giang, huyện Hoa Lư, Ninh Bình.
Lý lịch di tích chùa Phong Phú (1997), xã Ninh Giang, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình
Leave a comment